1. Tính chất, đặc điểm của cây đinh lăng
Đinh lăng, cây nhỏ có thân nhẵn, ít phân nhánh, có tán lá xanh tốt quanh năm.
Lá kép lông chim, mọc so le, lá chét khía răng nhọn, đôi khi chia thùy, gốc có bẹ to, vò ra có mùi thơm nhẹ. Cụm hoa mọc thành chùy ngắn gồm nhiều tán ở ngọn thân; hoa nhỏ màu lục nhạt hoặc trắng xám, đài và tràng có 5 thùy, nhị 5. Quả đinh lăng dẹt, hình trứng.
Đinh lăng rất phong phú về chủng loại: Đinh lăng lá tròn, đinh lăng lá to hay đinh lăng lá ráng, đinh lăng trổ hay đinh lăng viền bạc. Các loài này đều không được sử dụng làm thuốc như đinh lăng lá nhỏ.
Trên thế giới, đinh lăng phân bố rải rác ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, kể cả một số đảo ở Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, đinh lăng là cây trồng từ lâu đời và phổ biến để làm cảnh và làm thuốc.
Lá đinh lăng sắc uống để chóng lại sức, chống mệt mỏi
Để làm thuốc, rễ đinh lăng thu về ở những cây đã trồng được từ 3 năm trở lên, lúc này rễ mềm và cây chứa nhiều hoạt chất.
Rũ hết đất cát, cắt bỏ phần gốc thân, rửa sạch. Đối với rễ chính (rễ to), dùng dao sắc tách lấy vỏ rễ, bỏ phần gỗ. Rễ phụ (rễ con) thì dùng cả. Đem thái mỏng, phơi khô hoặc sấy lửa nhẹ để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất của dược liệu.
Khi dùng, để nguyên hoặc tẩm rượu gừng sao qua, rồi tẩm mật ong, sao thơm.
Còn dùng thân cành và lá, thu hái quanh năm, để tươi hoặc phơi, sấy khô.
2. Công dụng của đinh lăng
Trong y học cổ truyền, đinh lăng cùng họ với nhân sâm, tam thất nên đã được nghiên cứu và thử nghiệm với những tính chất của những dược liệu này. Kết quả đã xác nhận rễ đinh lăng có tác dụng làm tăng sức dẻo dai và sức đề kháng của cơ thể, chống hiện tượng mệt mỏi, chán ăn, làm ngủ ngon, tăng khả năng lao động cả trí óc lẫn chân tay, tăng cân và chống độc. Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, rễ đinh lăng còn là thuốc dùng cho phụ nữ sau sinh ít sữa, chữa ho, ho ra máu, sưng tấy, mụn nhọt, kiết lỵ…
Dược liệu có vị ngọt đắng, mùi thơm, tính mát, không độc được dùng dưới những dạng thuốc sau:
- Thuốc bột và thuốc viên: Rễ đinh lăng đã sao tẩm 100g tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 -1g. Hoạt trộn bột với mật ong vừa đủ làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 0,50g. Ngày uống 2 - 4 viên chia làm hai lần.
- Thuốc hãm: Rễ đinh lăng đã sao tẩm 5 - 10g hãm với nước sôi như hãm chè, uống làm nhiều lần trong ngày
- Thuốc ngâm rượu: Rễ đinh lăng phơi khô (không sao tẩm) 100g tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30 - 35° trong 7-10 ngày, càng lâu càng tốt. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống hai lần, mỗi lần 5 -10ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.
Rễ đinh lăng làm thuốc
Trong ngành y học quân sự, bột rễ đinh lăng đã áp dụng cho bộ đội hành quân và tập luyện với kết quả là khả năng chịu đựng và sức dẻo dai được tăng cường rõ rệt.
Viện Bảo vệ sức khỏe người cao tuổi đã thử nghiệm trên lâm sàng thuốc bổ từ rễ đinh lăng, sữa ong chúa, mật ong có tác dụng tăng cân tốt giúp ăn ngon, dễ ngủ, giảm mệt mỏi, tăng lực cơ, giảm cholesterol.
Chú ý: Không dùng rễ đinh lăng liều cao, để tránh hiện tượng bị say, mệt mỏi.
Từ trước đến nay, nhân dân ta vẫn có tập quán lấy búp và lá non đinh lăng để tươi, ăn sống cùng nhiều lá thơm khác như vọng cách, mơ tam thể, ngổ… trong món gỏi cá, nem chạo với mục đích làm thơm, chống tanh nhất là đối với những người hay bị dị ứng, mẩn ngứa.
Theo kinh nghiệm dân gian, các đô vật thường nhai lá đinh lăng để tăng cường sức dẻo dai khi thi đấu. Đối với trẻ nhỏ, để phòng và chống kinh giật, người ta lấy lá đinh lăng (cả lá non lẫn lá già) phơi khô, đem lót gối hay trải giường cho trẻ nằm.
Phụ nữ sau khi đẻ thường dùng lá đinh lăng phơi khô 50g thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày để chóng lại sức, chống mệt mỏi, kém ăn. Muốn có nhiều sữa nuôi con, lấy lá đinh lăng 50g băm nhỏ với bong bóng lợn (1 cái) rồi nấu với gạo nếp thành cháo ăn trong ngày. Có thể dùng chân giò hoặc móng giò thay bong bóng.
Dùng ngoài, lá đinh lăng để tươi băm nhỏ hoặc phơi ở khô, giã nhỏ, rây bột mịn, rồi trộn với ít muối và nước làm thành bánh, đắp chữa vết thương, viêm dây thần kinh.
Thân và cành đinh lăng tuốt bỏ lá, thái nhỏ, phơi khô (20 - 30g) sắc uống chữa đau lưng, mỏi gối, tê thấp, sưng vú. Dùng riêng hoặc phối hợp với rễ cây xấu hổ, cúc tần, bưởi bung, cam thảo dây.
Theo nghiên cứu hiện đại, đinh lăng chứa alcaloid, saponin, tanin, glycosid, tinh dầu, các acid amin, các vitamin B1, B2, B6, C, acid hữu cơ, nhiều nguyên tố vi lượng, đường. Lá đinh lăng có saponin triterpen và 5 hợp chất polyacetylen… có tác dụng tăng lực, làm tăng trọng lượng cơ thể, tăng co bóp tử cung và lợi tiểu. Ba chất polyacetylen trong rễ và lá có tác dụng kháng khuấn mạnh và đang được nghiên cứu chống một số dạng ung thư.
3. Một số bài thuốc thường dùng
3.1 Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, háo khát, đau tức ngực, nước tiểu vàng
Vỏ rễ đinh lăng 30g, lá hoặc vỏ quả chanh 10g, vỏ quýt 10g, rễ sài hồ 20, lá tre 20g, rau má 30g, cam thảo dây 30g, chua me đất 20g. Tất cả thái nhỏ, đổ ngập nước, sắc đặc lấy 250ml, chia làm 3 lần uống trong ngày.
3.2 Chữa thiếu máu
Rễ đinh lăng, thục địa, hà thủ ô đỏ, hoàng tinh, mỗi vị 100g, tam thất 20g, tán nhỏ, rây bột mịn, sắc uống ngày 100g.
3.3 Chữa bong gân
Lá đinh lăng 80g, vỏ cây gạo 40g (cạo bỏ vỏ đen), chân cua sống 40g, tô mộc 20g, nụ đinh hương 5 cái.
Lá đinh lăng, vỏ gạo, chân cua rửa sạch bằng nước muối, giã nhỏ; tô mộc tán thành bột mịn, đinh hương tán riêng. Tất cả trộn đều, đắp, nẹp cố định và băng lại. Mỗi ngày một lần.